Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

Việt Bắc - Tố Hữu



TÌM HIỂU BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU


MỤC TIÊU :
- Cảm nhận được một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước
- Nghệ thuật bài thơ đậm đà tính dân tộc, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.

I/Tìm hiểu chung

1/ Hoàn cảnh và mục đích sáng tác

- Tháng 10/1954, Trung ương Đảng, Chính phủ về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Tố Hữu đã từng gắn bó với Việt Bắc trong suốt những năm kháng chiến. Nhà thơ đã viết bài thơ này.

- Một trang sử mới của đất nước, một giai đoạn mới của cách mạng mở ra. Tố Hữu viết bài thơ này với xúc cảm của anh cán bộ kháng chiến.

+ Bài thơ nhằm tổng kết, tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, nó trở thành kỉ niệm khắc sâu lòng người.

+ Bài thơ là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, đồng thời thể hiện tình cảm ân nghĩa thuỷ chung.

+ Bài thơ còn thể hiện những dự cảm, mong ước về tương lai giữa miền xuôi và miền ngược.

- Đoạn trích SGK nằm trong phần đầu của bài thơ. Nửa sau của bài thơ chủ yếu nói về hẹn ước, tương lai giữa miền xuôi và miền ngược.

2/. Kết cầu của bài thơ

- Kết cấu là thuật ngữ chỉ nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học (thơ, văn). Những biểu hiện bên ngoài là hình thức bên trong là nội dung.

- Bài thơ có kết cấu theo lối đối đáp của ca dao trữ tình. Thực chất nó là lối độc thoại, đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào về quá khứ. Nó nêu bật tình nghĩa thắm thiết của con người với cách mạng và kháng chiến. Nó còn là khát vọng về tương lai và nhiều dự cảm mới mẻ.

- Lời đối đáp giữa mình, ta, kẻ ở người đi chỉ là sự phân thân của nhân vật trữ tình, chỉ là cách để tâm trạng bộc lộ đầy đủ hơn trong hô ứng, đồng vọng giữa hai con người tưởng tượng.

- Bài thơ chia làm 2 phần. Đoạn trích thuộc phần đầu ôn lại những kỉ niệm đầy nghĩa tình sâu nặng của con người. Đó là tình cảm của anh cán bộ kháng chiến đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc, tình cảm của Việt Bắc đối với cách mạng và kháng chiến.

3/. Cảm xúc chủ đạo của đoạn trích

- Cảm xúc chủ đạo là tình cảm của nhân vật trữ tình
Đoạn trích bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của anh cán bộ kháng chiến với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đồng thời là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến. Tình cảm ấy đọng lại niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Cuộc chia tay

- Nhà thơ tạo ra lời đối đáp giữa kẻ ở người đi

+ Việt Bắc hỏi:

Mình về có nhớ ta chăng
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

+ Anh cán bộ kháng chiến trả lời:

“Tiến ai… hôm nay”

- Sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình yêu đôi lứa, vợ chồng

+ Mình (trở đi trở lại)
+ Ta

- Bằng âm điệu ngọt ngào như lời ru trong thể thơ lục bát. Ba biện pháp nghệ thuật trên đây đã đưa người đọc vào thế giới tâm tình đầy ân nghĩa, trải dài trong không gian, thời gian tâm tưởng.

- Lời của Việt Bắc lên tiếng trước. Đây là thể hiện sự nhạy cảm về tâm hồn trước hoàn cảnh đổi thay. Việt Bắc hỏi về thời gian “mười lăm năm ấy”, hỏi về không gian “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Hỏi về không gian và thời gian thường gợi kỉ niệm vừa gắn bó vừa sâu nặng. Nó chứng tỏ người dân Việt Bắc sống gần gủi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể.

Lời hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy bao kỉ niệm, khơi nguồn cho nỗi nhớ. Không gian và thời gian cụ thể “mười lăm năm” bỗng trở thành không gian và thời gian tâm tưởng.

- Lời anh cán bộ kháng chiến. Chia tay với Việt Bắc, anh cán bộ kháng chiến thấy lòng mình bâng khuâng, xao xuyến. Hàng loạt những từ ngữ gợi tâm trạng: “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tha thiết”. Anh cất lên lời đáp. Lời đáp lại như một câu hỏi “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Biết rồi đấy mà vẫn hỏi. Một tiếng ai gợi ra sự gắn bó của người trong cuộc. Nó như lời giả từ của một người yêu với một người yêu. Hình ảnh “áo chàm” được lấy làm hoán dụ để chỉ người có áo, “áo chàm” màu áo không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến. Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Cuộc chia tay không nói nên lời. Nó lưu luyến bịn rịn.Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau. Chỉ có đôi bàn tay nắm lấy bàn tay và nói giùm tất cả.

Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm trong tiếng nói chung.

- Đó là cách sử dụng ngôn ngữ diễn tả cuộc chia tay.
Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình”

+ “Mình” chỉ bản thân người nói (ngôi thứ nhất) nhưng ở văn cảnh này “mình” còn chỉ đối tượng giao tiếp. Một đối tượng gần gũi, gắn bó, thân thiết, người bạn đời yêu mến. “Mình” đã chuyển sang ngôi thứ 2 nhằm diễn tả quan hệ tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “Mình” được dùng ở nghĩa thứ hai (đối tượng trực tiếp trò chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc diễn tả tình cảm chân thật, cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng.

- Để diễn tả cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân xứng, nhịp nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc tiễn đưa:

- Mình về / mình có / nhớ chăng
Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng
Mình về / mình có / nhớ không
Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn

- Tiếng ai / tha thiết / bên cồn
Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi
Áo chàm / đưa buổi / phân li
Cầm tay nhau biết / nói gì hôm nay.

Sự ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng, đồng vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diểt, mênh mang với thiên nhiên, con người, với cách mạng và kháng chiến.
2. Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc

- Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ)

- Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”.

+ Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất hiện nhiều lần trước mắt ta, buộc ta phải chú ý.

+ Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc sâu trong tâm trạng người đọc, người nghe về sắc thái tình cảm của con người. Khi diễn tả nỗi nhớ của anh cán bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về sự kiện cách mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc.

- Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp trong tưởng tượng. Nhà thơ để Việt Bắc hỏi:

+ Mình đi, có nhớ?

+ Mình về, có nhớ?

Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xoáy sâu vào lòng người, gợi nỗi nhớ như dòng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra:

“Trám bùi”, “măng mai”

+ Những mái nhà “hắt hiu lau xám”

+ Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái”

+ Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”

Ba tiếng “mình” trong một câu thơ mang lại cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thông thường mình (1), mình (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Nhưng cũng có cách hiểu mình (1), mình (2), mình (3) chỉ là một đối tượng: người ra đi. Người ra đi tự hỏi mình, tự đối thoại với mình để đừng bao giờ quên Việt Bắc. Cũng có thể người ở lại nhắc người ra đi đừng có quên những ngày tháng, đừng quên chính mình, đánh mất mình. Thơ như thế thật dung dị mà sâu sắc.

Đáp lại sự khẳng định:

Ta với mình, mình với ta
Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Cũng là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết quá. Ta nghe như người yêu nói với người yêu, tiếng của người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng. Nhưng ba tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở nên mặn mà, đinh ninh, sâu sắc. Nhân vật trữ tình tự phân thân, lại hoà làm một xoáy sâu vào tiếng nói của tâm trạng để tìm sự đồng vọng của người đọc người nghe.

- Đó là đoạn thơ:

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

- Thiên nhiên thật tươi tắn “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của Việt Bắc “Mùa xuân mơ nở trắng rừng” không ở đâu có được. Không chỉ có ở màu sắc đường nét mà cả âm vang sôi động: “ve kêu rừng phách đổ vàng”.

- Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là sự kết hợp đến dung dị, cứ một câu tả về thiên nhiên là một câu nói về con người.

+ “Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”: Con người thật bình dị, khoẻ khoắn trong lao động. Đến những câu:

+ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Con người cần mẫn trong công việc. Con người Việt Bắc thật vui, thật tươi sung sướng đón nhận cuộc sống hoà bình, không có tiếng súng, hạnh phúc đã trở về với họ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

- Đoạn thơ hay và tiêu biểu khi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên nhiên làm nền để bức chân dung phác thảo về con người hiện lên mồn một. Con người gần gũi với thiên nhiên, bình dị như thiên nhiên.

- Nhớ về những con người lam lũ nghèo khổ:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Tấm lưng người mẹ nghèo miền núi đã đi vào thơ không chỉ một mà nhiều người:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
(Nguyễn Khoa Điềm - Tiếng hát những em bé lớn trên lưng mẹ)

Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc
(Bóng cây Kơ nia-Ngọc Anh phỏng dịch theo điệu Ka choi)

Người đọc không thể quên hình ảnh “nắng cháy lưng” trong thơ Tố Hữu.

- Nhớ về những người thuỷ chung son sắt, nghĩa tình với kháng chiến:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Thơ hay và thấm thía bởi đề cập tới nghĩa tình con người cùng chia sẻ gian khổ và niềm vui. Cuộc sống con người chỉ đẹp khi gian khổ càng sắt son, gắn bó. Thơ Tố Hữu luôn đi sâu phát huy những gì tốt đẹp của truyền thống hơn là theo hướng cách tân hiện đại. Vì thế, nhà thơ khám phá những nét riêng của cuộc sống bình dị mà ấm áp của Việt Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

- Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc đẫm trong cảm xúc mơ màng, lãng mạn:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương

Nỗi nhớ thật đẹp. Ta nhận ra trong nỗi nhớ ba đối tượng không thể tách rời: đó là nhớ về thiên nhiên, con người cuộc kháng chiến hào hùng và niềm tin sâu sắc.

3. Nỗi nhớ về cuộc kháng chiến và niềm tin của con người

- Đoạn thơ sau:

+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
… mai lên”
+ “Ai về ai có nhớ không… các khu”

Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang, hình ảnh sống động của khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến

+ Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thể trận của chiến tranh nhân dân. Toàn dân đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ, đánh giặc bằng tất cả những gì có trong tay. Dựa vào rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết:

Núi giăng thành luỹ sắt dây
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

+ Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đây là hình ảnh trên đường ra trận:
“Những người Việt Bắc của ta
…mai lên”

Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Những hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”;
Những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”;
Những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá”

Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ khác hẳn ở đoạn trên êm ả, ngọt ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người đọc, người nghe khí thế sôi động của chiến tranh toàn dân mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp giọng điệu ngọt ngào của thơ lục bát với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện:

Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thẳm gió lồng cửa hang
….
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Ta vừa đánh giặc vừa lo phát triển kinh tế, vừa đánh giặc vừa chăm lo phát triển văn hoá. Có như vậy mới thực hiện đúng đường lối kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm tin.

- Tin vào Đảng và Bác Hồ:

ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Ở đâu, ở đâu dù u ám do quân thù tàn phá, giày xéo, đốt phá, chém giết hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã gieo một niềm tin tưởng. Nhịp thơ, lời thơ đã tạo ra giọng điệu trang trọng, lắng sâu trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc và cả chúng ta nữa đều có niềm tin ấy.

+ Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc. Nó phát huy đầy đủ tiếng Việt nhất là con người Việt Nam. Đó là thuỷ chung tình nghĩa, đạo lí uống nước nhớ nguồn.

* Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất nước gắn liền với đạo lí tình nghĩa cách mạng.

- Tình nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách mạng

Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng chiến thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

- Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt:

+ “Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”

+ “Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt đầy
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

- Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lí uống nước nhớ nguồn:

+ “Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

- Thuỷ chung, son sắt với niềm tin vào Đảng, Bác Hồ:

+ “Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”

- Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt Bắc:

+ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

+ “Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đấy đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn xui đắp cùng”

+ “Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”

+ “Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

+ “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
…thuỷ chung”

* Thể thơ lục bát được vận dụng trong một bài thơ dài và nhiều lời thể hiện truyền thống dân tộc để làm sáng tỏ nghĩa tình cách mạng.

- Thơ lục bát tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng

+ Tha thiết ở nỗi nhớ
+ Sôi nỗi, mạnh mẽ, hào hùng ở ca ngợi kháng chiến
+ Trang trọng thiết tha thể hiện niềm tin biết ơn

- Lời nói giàu hình ảnh

+ Thiên nhiên, con người Việt Bắc
+ Biểu dương lực lượng và sức mạnh
+ Thế trận của chiến tranh nhân dân

- Sử dụng nhiều cách chuyển nghĩa truyền thống

+ Lối so sánh
+ Lối ẩn dụ
+ Tượng trưng, ước lệ

“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
“Ở đâu u ám quân thù”

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

ĐẤT NƯỚC - Nguyễn Khoa Điềm

ĐẤT NƯỚC

(Trích Trường ca Mặt đường khát vọng)

Nguyễn Khoa Điềm

I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

- Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điểm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

- Quê gốc An Cựu, Thuỷ An, thành phố Huế

- Gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Cha ông là Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), nhà phê bình văn học theo quan điểm Mac xit nổi tiếng giai đoạn 1930 – 1945. Năm 1955 ông được đưa ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam. Tốt nghiệp đại học Sư phạm Hà Nội 1964, Nguyễn Khoa Điềm trở về miền Nam tham gia chiến đấu, hoạt động bí mật trong thành phố Huế, từng bị địch bắt giam. Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, ông được giải thoát, tiếp tục lên hoạt động ở chiến khu Trị Thiên.

- Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ từ thời kì này và là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư người trí thức, tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.

- Sau năm 1975, tiếp tục hoạt động ở thành phố Huể, là Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam khoá V, Bộ trưởng Bộ văn hoá – thông tin, Trưởng ban tư tưởng – Văn hoá Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.

* Tác phẩm chính: các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca - 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007).

Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2000.

2. Đoạn trích Đất nước

* Đoạn trích Đất nước từ trường ca Mặt đường khát vọng. Bản trường ca nhằm thức tỉnh tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh, nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Trường ca này hoàn thành năm 1971 và in lần đầu ở miền Bắc (1974). Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của trường ca về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

* Bố cục: Đoạn trích chia làm 2 phần:

- Phần 1 từ đầu đến: “làm nên Đất nước muôn đời”, ý của phần này: Đất nước của nhân dân được cảm nhận bằng văn hoá, ca dao thần thoại và tình yêu con người. Xen vào phần một còn thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa cá thể và cộng đồng, thành viên với đất nước của mình

- Phần hai còn lại: Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cách nhìn và sự phát hiện về địa lí, lịch sử, văn hoá. Xen vào đó là đoạn chính luận làm nổi bật vai trò của nhân dân quyểt định vận mệnh Tổ quốc.

* Đoạn trích thể hiện tư tưởng lớn: Đất nước này là Đất nước của Nhân dân. Từ đó thức tỉnh tuổi trẻ miền Nam hoà hợp vào cuộc đấu tranh hướng về nhân dân đất nước

II. Đọc hiểu văn bản

1. Đất nước của nhân dân được cảm nhận ở những góc độ. Từ đó nhà thơ thức tỉnh tuổi trẻ hướng về nhân dân đất nước.

- Tác giả nhìn nhận đất nước trên phương diện của ca dao thần thoại. Qua đoạn thơ:

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
….
Đất Nước có từ ngày đó

Đất Nước có từ rất xa. Đất Nước có từ trong những chuyện đời xưa, từ phong tục ăn trầu đến truyền thống “biết trồng tre mà đánh giặc”. Những hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng tới Sự tích trầu cau, Truyện Thánh Gióng gần gũi hơn cả là cuộc sống đời thường của mỗi con người. Thành ngữ dân gian “gừng cay muối mặn” có từ buổi cha mẹ thương nhau, đến chuyện đặt tên cho cái kèo, cái cột, “Hạt gạo phải một nắng hai sương” và cuộc sống bề bộn hằng ngày… Đất Nước hiện lên thật thiêng liêng và gần gũi, dễ cảm hoá và đi vào lòng mỗi người.

Đất Nước còn có nguồn gốc vừa thiêng liêng, vừa tôn kính:

Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng về
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Ta nhận ra nguồn gốc. Ở đâu trên Đất Nước này ta phải nhớ mình đều chung một nguồn gốc và tự hào về truyền thống con Rồng, cháu Tiên.

- Đất Nước không chỉ bắt nguồn từ đời sống lam lũ, lo toan hằng ngày mà còn bắt nguồn từ đời sống tình cảm:

“Cha mẹ thương nhau”
Và “Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Tình yêu lứa đôi cũng làm nên gương mặt tinh thần cảu Đất Nước. Hình ảnh chiếc khăn làm ta nhớ tới câu ca dao còn đẫm nước mắt của những người yêu nhau từ thuở xa xưa.

- Tác giả cảm nhận Đất Nước trên nhiều bình diện, phát hiện nhiều điều mới mẻ. Đất Nước là sự thống nhất, hoà hợp của nhiều phương diện văn hoá, phong tục, truyền thống, cả ca dao, thần thoại, có những chuyện thuộc về đời thường hàng ngày, cũng có những cái thuộc về sự vĩnh hằng. Trong đời sống mỗi con người có cả cộng đồng. Vì thế giọng thơ chuyển từ trữ tình sang chính luận.

- Tìm đến ca dao, thần thoại là tìm đến đời sống giân dan từ xa xưa. Đời sống tinh thần cảu dân tộc xưa vừa thơ mộng, vừa trữ tình. Nó mộc mạc tự nhiên, thuần phác, dễ đi vào lòng người hôm nay để tuổi trẻ dễ nhận ra cái hồn, cái cốt, tư tưởng Đất Nước này là đất nước của Nhân dân.

- Giang Nam với bài Quê hương, Tố Hữu với Việt Bắc; Vũ Cao với Núi đôi; Dương Hương Lí với Đất quê ta mênh mông, Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống; Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam…. Và rất nhiều những nhà thơ khác đều viết về Đất Nước. Mỗi người một vẻ không ai giống ai. Giang Nam, Vũ Cao cảm nhận về đất nước gắn liền với hi sinh, mất mát. Tố Hữu viết về đất nước với khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và nghĩa tình son sắt, đạo lí cách mạng. Dương Hương Lí viết về đất nước gắn liền với chiến công của các bà mẹ đào hầm trong tầm đại bác. Lê Anh Xuân viết về đất nước gắn với hi sinh của chiến sĩ vô danh đã ngã xuống trên đường băng của sân bay Tân Sơn Nhất. Hoàng Cầm xót xa trước cảnh quê hương bị giày xéo để rồi có khát vọng vùng lên. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có thể đặt trong cùng bình diện. Cả hai đều là những xúc cảm về đất nước trong tiến trình lịch sử. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi gắn liền với đất nước trong đau thương và quật khởi vùng lên “Sức sống kì diệu đã biến một nước Việt Nam hiền hoà thành một nước Việt Nam bất khuất”. Mạch cảm xúc ấy thật giá trị. Nhưng vẫn không có gì mới mẻ. Phản ánh về đất nước, các nhà thơ đều chung một mạch cảm xúc. Đó là xót xa, uất ức, nghẹn ngào và anh dũng đứng lên. Đến Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự tìm được hướng khác trong cảm nhận. Nhà thơ khai thác đề tài dân gian, địa lí và lịch sử để làm cho mọi người thấy đấy, rõ ràng mà cũng thật bất ngờ. Cái mới, nét đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ đó.

- Hai dòng thơ:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Hai câu thơ làm nên chất chính luận. Nó mang tính triết lí thật sâu sắc. Đó là mối quan hệ giữa cá thể với cộng đồng giữa mỗi người với Đất Nước của mình. Điều ấy có nghĩa em, thế hệ trẻ không thể tách rời khỏi Đất Nước.

Những câu thơ thực sự rung động:
Em ơi en Đất Nước là máu xương của mình

Làm nên Đất Nước muôn đời

Tiếng gọi thiểt tha “Em ơi em!”, kết hợp với sự khẳng định “Đất Nước là máu xương của mình” và hàng loạt những từ phải biết, gắn bó, san sẻ, hoá thân, làm nên… Tất cả như lời giục giã, cởi mở chân thành. Tư tưởng Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân còn được thể hiện ở phần 2 của bài thơ.

2. Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cái nhìn, đưa đến những phát hiện mới mẻ, sâu sắc về địa lí, lịch sử.

- Tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn nhận mới mẻ. Tác giả đã nhìn nhận về Đất Nước trên các bình diện về địa lí, lịch sử, văn hoá.

- Nhìn nhận về địa lí, lịch sử văn hoá không phải là cái nhìn mang tính đặc trưng của từng ngành khoa học này. Nói về địa lí không phải bằng chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, cũng không bằng sự kiện lịch sử mà bằng cách nói cảm xúc:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Những địa danh dòng sông (Cửu Long – chín rồng) đến tên núi “Vọng Phu”, những tên đất gắn liền với tên người (ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm) đến gò, đầm, đồi, bãi, những danh lam thắng cảnh (Hạ Long) đã gắn liền với dân tộc, gắn liền với cuộc sống con người. Từ đó lời thơ như thăng hoa, đúc kết thành triểt lí sâu sắc:

Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà chính luận là ở đó.

Cái bình diện địa lí, lịch sử được nhìn nhận bằng tâm hồn dạt dào cảm xúc, góp phần làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ, làm nên nét riêng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về Đất Nước.

- Tác giả cất tiếng gọi:

“Em ơi em”
Sau tiếng gọi là sự giãi bày:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Vai trò của nhân dân toả sáng trong 6 câu thơ đấy triết lí. Nhân dân ta đã chiếm lính vũ đài lịch sử. Bất giác ta nhớ tới hình ảnh ở thời đại ta. Đó là đội trưởng cẳm cờ trên nóc hầm Đờ Cát là một chàng trai tình lúa Thái Bình. Những chiến sĩ ngồi trên xác pháo xe tăng cũng đều là người nông dân mặc áo lính. Thơ là tấm lòng nhưng trước hểt thơ phải là cuộc sống. Những người chiến sĩ ấy không thể đắn đo giữa sống và chết. Họ thật giản dị, bình tâm. Tên tuổi họ đã làm nên Đất Nước.

- Nguyễn Khoa Điềm không dùng những từ, những luận điểm, luận cứ có tính chính luận mà bằng ngôn ngữ của đời thường. Tác giả cũng không hô to gọi giật của lời thơ tuyên truyền cổ động mà thơ vẫn đi vào lòng người đọc.

- Nhà thơ nhằm mục đích thức tỉnh, lay động về nhận thức của tuổi trẻ miền Nam, cả nước nói chung, của tuổi trẻ các thành phố, đô thị trong vùng tạm chiếm nói riêng.

Bốn câu thơ kết đoạn:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát thi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

Đất Nước gắn liền với dòng sông. Đất Nước gắn với những con người theo dòng chèo đò, kéo thuyền vượt thác. Họ phải trải qua những gian nan vất vả. Họ phải chèo, kéo và vượt qua tất cả thác ghềnh để gieo trồng và giữ gìn sự sống. Lạ thay, họ cất lên tiểng hát. Tiếng hát để động viên nhau. Tiếng hát thể hiện lòng yêu đời, thiết tha với đời. Tiếng hát là tinh thần lạc quan. Người dân của Đất Nước mình đấy, dân tộc ta đấy. Tuổi trẻ ơi! Hãy nối bước cha ông.

- Nguyễn Đình Thi dựng gương mặt đất nước theo quá trình “Từ những năm đau thương chiến đấu” để làm nên “Nét mặt quê hương”. Nhà thơ nhấn mạnh “Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn. Những câu thơ tưởng như như hồn khí lực để bật lên thành sự công phá”. “Một đất nước nung nấu đau thương, tích tụ căm hờn để cuối cùng quật khởi vùng lên”. Nhà thơ đã phản ánh hình tượng đất nước theo một quá trình chuyển hoá. Đất nước hiện qua mùa thu hiền hoà với hương thu gợi nhớ để rồi sừng sững với bức chân dung dữ dội hoành tráng:

“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.

Hai hình tượng để cảm xúc thơ Nguyễn Đình Thi vận động xung quanh Đất và Trời. Hai hình tượng ấy thể hiện ở hai giai đoạn. Nó gắn vào nhau.

+ Đây là đất nước trong đau thương:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều

+ Đất nước trong sự thay đổi, giành lại cuộc đời:

Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới

+ Đất nước trong thế vùng lên:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ

- Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước không nói về đau thương, đổi đời, chuyển hoá vùng lên mà nhấn mạnh “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”. Cách khai thác cũng mới mẻ. Nhà thơ tìm đến cội nguồn Đất Nước bằng những chi tiết chân thực, giản dị ai cũng biết, cũng nhận ra. Sự hình thành đất nước qua ca dao, tục ngữ, những huyền thoại đẫm màu sắc dân gian. Sản phẩm tinh thần do nhân dân là người sáng tạo. Họ làm ra Đất Nước cùng với nền văn hoà phi vật thể. Hai tiếng dân gian nghĩa là trong dân, do dân, ở dân. Người dân đã làm ra Đất Nước. Những bình diện về địa lí, lịch sử đưa vào thơ không phải bằng những đặc trưng của các ngành khoa học ấy mà bằng cái nhìn dạt dào cảm xúc, đẫm chất trữ tình. Dòng sông Đất Nước được nhìn dưới góc độ tưởng tượng: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Ở đâu có trái núi mang hình một thiểu phụ bồng con, người ta gọi đó là núi vọng phu ở Lạng Sơn, Bình Định… Tất cả được giải bày bằng cảm xúc:

“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”.

Hai hình tượng để cho cảm xúc thơ của Nguyễn Khoa Điềm vận động xung quanh là Đất và Nước. Hai yếu tố tự nhiên nuôi sống con người và con người cũng vật lộn với nó để xây lên Đất Nước.

- So sánh giữa hai bài thơ để thấy những nét riêng biệt khi viết cùng một đề tài, càng thấy sự phong phú của thơ ca hiện đại.

- Tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học dân gian, văn hoá dân gian một cách nhuần nhị trong câu thơ hiện đại có tác dụng vừa tác động vào trí tuệ, tình cảm tạo ra ý thức thẩm mĩ cho người đọc (Những câu thơ có liên quan đến tục ngữ, ca dao, truyện cổ dân gian…)

- Tác giả kết hợp giữa cảm xúc và triểt lí, trữ tình và chính luận trong thơ để tạo ra cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa sâu sắc.

- Câu thơ giàu hình ảnh. Hình ảnh nào cũng gắn với cuộc sống của nhân dân, nhất là văn hoá, văn học dân gian.

Tây Tiến - Quang Dũng


PHÂN TÍCH THƠ HAY VĂN XUÔI THÌ TRƯỚC KHI KẾT BÀI PHẢI NÓI VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM:
Văn xuôi thì thường kết là: bằng nghệ thuật miêu tả tài tình cộng với ngôn ngữ mộc mạc giản dị tác giả đã làm hiện lên....

TÂY TIẾN
Quang Dũng


Câu 1: Vài nét về tác giả Quang Dũng ? Giới thiệu về đoàn quân Tây Tiến ? Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ?
a. Tác giả
Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu).
Quê: Đan Phượng, Hà Tây.
Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc...
2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính:
Mây đầu ô (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng (1988)
b. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến
Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng.
Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh.
Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào - Việt.
Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây Thanh Hóa.
Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành.
c. Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.
Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên thành Tây Tiến.
Câu 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh mất mát, hướng về tương lai hi vọng, trông chờ.
Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa là vừa bi thương lại vừa hào hùng.
1. Khổ 1 ( Sông Mã ... nếp xôi)

Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến  ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
•-                         Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông.
•-                         Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè.
•-                         Điệp từ "nhớ" được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả.
Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:
Ca dao có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.
•·        Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng  lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.



Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ:
 


•-         Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.
•-         6 câu thơ tiếp theo " Sài khao....xa khơi" diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của "thi trung hữu họa" (trong thơ có họa):
Cụ thể:
Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:
Sài Khao sương......
Mường Lát.........
+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi.
Dốc lên......
Heo hút...
Ngàn thước...
Nhà ai...
+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình "khúc khuỷu" (quanh co khó đi), "thăm thẳm" (diễn tả độ cao, độ sâu), "heo hút" (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"  (bảy chữ mà đã có tới 5 vhwx là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.
+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
+ Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống", làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ.
+ Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu  và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ  quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
            + Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
"Chiều chiều..." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu người", luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi  bật lên  hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh
" Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...".
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ " Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.
2. Khổ 2 ( Doanh trại...đong đưa)

Bốn câu đầu: (chép vào) đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
+ Từ " Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành "đuốc hoa" ("Đuốc hoa" là hoa chúc - cây  nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn.)gợi không khí ấm cúng. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã.
 + Từ "kìa em" thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục "xiêm áo" lộng lẫy cùng dáng vẻ "e ấp" rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lòng các chàng lính trẻ.Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất bạn hơn " Nhạc về..."
+ Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ.
4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng :hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.
Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác.
Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa đong đưa" là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền "chiều sương ấy". Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

+ Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
"Có nhớ", "có thấy" luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi.
Nghệ thuật:  ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa.
3. Khổ 3 

Hình tượng người lính Tây Tiến  bi thương, hào hùng, lãng mạn.
Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì dị: Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính.
Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị: " TT đoàn binh...oai hùm".
Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
Dẫn chứng minh họa thêm:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má...............
Anh vệ................
Sao mà................
(TH)
Tôi với anh................
Sốt run......................
Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập, giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn mạnh mẽ: Đoàn binh không mọc tóc", " Quân xanh màu lá", tương phản với " dữ oai hùm". Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những " Vệ túm", "Vệ trọc" một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà " dữ oai hùm" làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. " "Đoàn binh" gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường của " Quân đi điệp điệp trùng trùng", của "tam quân tì hổ khí thôn ngưu" (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) . Ba từ " dữ oai hùm", gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm, người lính TT vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. "mắt trừng" dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.
Tâm hồn Lãng mạn: Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội, về quê hương.
4 câu cuối ngời lên vẻ đẹp lí tưởng:
+ Câu " rải rác..." toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô danh nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+ Tinh thần chiến đấu " Chiến trường...". Ba từ "chẳng tiếc đời xanh " vang lên vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại " Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh", cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc.
Dẫn chứng thêm:
- Ôi tổ quốc....................
Như mẹ cha.................
Ôi TQ........................
Cho mỗi ..........................
Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng tới vẻ đẹp của những tráng sĩ thời xưa ví như Thái Tử Kinh Kha sang đất Tần hành thích Tần Thủy Hoàng cũng mang tinh thần:Tráng sĩ một đi không trở về
Kết luận: Không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà ở người lính TT còn phảng phất vẻ đẹp của  tinh thần hiệp sĩ.
Coi nhẹ cái chết: " Áo bào............độc hành"
Hiện thực: Người lính chết không có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc thân nhưng vẫn xem cái chết nhẹ như lông hồng. Câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là về với đất mẹ "Người  hi sinh đất hồi sinh/ máu người hóa ngọc lung linh giữa đời".Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Sông Mã tiễn đưa bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.
  
Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng. 
4. Khổ cuối
Lời thề son sắt thể hiện tinh thần " Nhất khứ bất phục hồi" - Một đi không trở về.
"Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi..."

Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khuâng làm lòng ta nao nao khó tả. Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Vì vậy  Cái chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hoà vào hồn thiêng của toàn dân tộc, bay lên, bay lên mãi, "chẳng về xuôi".
"Không hẹn ước" rồi lại "thăm thẳm một chia phôi". Quang Dũng khẳng định cái ý niệm "nhất khứ bất phục hoàn" trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu nhất, bền vững nhất về Tây Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.

"Tây Tiến mùa xuân ấy" đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Xin thầy hãy dạy cho con tôi - Abraham Lincoln



Abraham Lincoln

Xin thầy hãy dạy cho con tôi







(Trích thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học)




Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên
đường phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho
cháu biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với năm đôla nhặt được trên hè phố…

Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng.

Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ.

Xin dạy cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất…

Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách… nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn
trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.

Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm…

Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hoà nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy
theo thời thế.

Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người những cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt
đẹp…

Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã, xin hãy dạy cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.

Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yểm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.

Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình…

Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông đang gào thét… và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng…

Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn.

Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt tối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhận loại.

Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và may mắn.